Trong
kinh Đại Niệm Xứ (MAHĀSATIPAṬṬHĀNASUTTAṂ) Đức Phật dạy thiết lập Chánh niệm
trên bốn lãnh vực thân, thọ, tâm, pháp. Nếu ta tinh ý thì thấy rằng Phật sắp
xếp các đề mục không hề ngẫu nhiên mà theo một trình tự hữu ích cho sự tu tập.
Trong phần quán thân, Phật đặt hơi thở lên đầu tiên và trình bày trước, tất cả
đều có dụng ý của Ngài. Trong thiền tập, hơi thở là đề mục dễ thực hành, đem
lại kết quả lớn. Phần lớn hành giả đều thành công từ đề mục hơi thở. Đề mục hơi
thở khi thành tựu thì sự thực tập các đề mục khác là rất dễ dàng như quán bất
tịnh, quán tử thi v.v.
Kinh tạng Pali trình bày khá nhiều về hơi thở, trong
đó ba bản kinh được chú ý nhất là: Kinh số 22, Đại Niệm Xứ thuộc Trường Bộ
Kinh; Kinh số 10, Niệm Xứ thuộc Trung Bộ và kinh số 118, Nhập Tức, Xuất Tức
Niệm thuộc Trung Bộ. Nhưng có một bản kinh mà ít người chú ý đến là bộ Phân
Tích Đạo (PAṬISAMBHIDĀMAGGO) thuộc Tiểu Bộ Kinh, bản kinh này do chính Ngài Xá
Lợi Phất thuyết và đã được Indacanda dịch từ Pali sang Việt. Trong bản kinh
phần Ānāpānasatikathā -
Giảng về Niệm Hơi Thở Vào Hơi Thở Ra, Ngài Xá Lợi Phất trình bày rất rõ cách
thức niệm hơi thở thế nào cho đúng. Ở đây xin được trích một số đoạn trong bản
kinh mà theo Ngài Xá Lợi Phất nếu thực tập đúng sẽ đưa đến chánh trí và Niết
bàn. Ở trang 323, tập một Ngài dạy:
“ Hiện tướng, hơi thở vào, ra chẳng phải cảnh một tâm.
Người không biết ba pháp, tu tập không thành đạt.
Hiện tướng, hơi thở vào, ra chẳng phải cảnh một tâm.
Vị nhận biết ba pháp tu tập được thành tựu”.
Ba pháp ở đây là Nimitta (ấn tướng hơi thở), hơi thở
vào, hơi thở ra.
Ba pháp này không phải là đối tượng của một tâm, ba
pháp này không phải là không được biết đến, tâm không đi đến tản mạn, sự nỗ lực
được nhận biết, hành giả hoàn tất việc thực hành, và đạt đến sự chứng ngộ là có
ý nghĩa như thế nào?
Cũng giống như thân cây được nằm ở trên mặt đất bằng,
một người đàn ông có thể cắt chính nó bằng cái cưa. Niệm của người đàn ông được
thiết lập theo tác động của các răng cưa chạm vào thân cây mà
không chú ý tới các răng cưa tiến tới hoặc thụt lùi.
Các răng cưa tiến tới hoặc thụt lùi không phải là không được biết đến, sự nỗ
lực được nhận biết và người ấy hoàn tất nhiệm vụ. Thân cây được đặt nằm ở trên
mặt đất bằng như thế nào, hiện tướng do sự gắng liền của niệm là như thế ấy.
Các răng cưa là như thế nào hơi thở vào, hơi thở ra là như vậy. Như thế niệm
của người đàn ông được thiết lập theo tác động của các răng cưa chạm vào thân
cây mà không chú ý tới các răng cưa tiến tới hoặc thục lùi. Các răng cưa tiến
tới hoặc thụt lùi không phải là không được biết đến, sự nỗ được nhận biết và
người ấy hoàn tất nhiệm vụ. Tương tự như thế, sau khi thiết lập niệm ở chóp mũi
hoặc ở môi trên, vị tỳ kheo đang ngồi, không chú ý ở hơi thở vào ra đến hoặc
đi. Hơi thở vào ra đến hoặc đi không phải là không được biết đến, sự nỗ lực được
nhận biết và người ấy hoàn tất nhiệm vụ.”
Ở đây, ta thấy Ngài Xá Lợi Phất chỉ rất rõ về cách
thức đặt niệm trên hơi thở ở giai đoạn ban đầu. Ngài dạy ở giai đoạn ban đầu chỉ
cần thiết lập niệm ở chóp mũi hay ở môi trên, không cần phải theo dõi hơi thở
đi vào trong thân như thế nào và khi hơi thở ra cũng chỉ đặt niệm ở mũi không
quan tâm nó đi ra ngoài không khí như thế nào.
Tiếp đến Ngài dạy: “Trong khi thở vào dài, vị ấy nhận
biết: “Tôi thở vào dài”, hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy nhận biết: “Tôi thở
ra dài” là có ý nghĩa như thế nào? Vị ấy thở vào hơi thở vào dài trong thời
gian được công nhận là lâu, vị ấy thở ra hơi thở ra dài trong thời gian được
công nhận là lâu.” Và trong mục cảm giác toàn thân Ngài Xá Lợi Phất dạy: “Cảm
giác toàn thân, hơi thở vào hơi thở ra là thân, sự thiết lập là niệm, sự quán
xét là trí, thân là sự thiết lập không phải là niệm, niệm vừa là sự thiết lập
vừa là niệm; với niệm ấy với trí ấy, vị ấy quán xét thân ấy; vì thế được nói
rằng : “Việc tu tập sự thiết lập niệm về quán xét thân trên thân.” Trong đoạn
kinh trên cho thấy Ngài Xá Lợi Phất nói “thân” đây chính là “hơi thở”.
Với người nỗ lực tu tập tinh tấn, đúng phương pháp sẽ
đạt được những thành tựu lớn trên con đường tu tập, nhanh chóng tiến tới giải
thoát, như Ngài khẳng định: “Vị niệm hơi thở vào ra tròn đủ khéo tu tập,
tuần tự được tích lũy, theo như lời Phật dạy, tỏa sáng thế giới này, tợ trăng
thoát mây che.”
Trung Nhã.