Pháp thoại “Có Những Loại Ánh Sáng”

12/11/2024 10:51
Sáng ngày 10/11/2024 (nhằm ngày 10/10/Giáp Thìn), khóa tu Sống Tỉnh Thức lần thứ 87 tiếp tục diễn ra ngày thứ hai với sự trở về tham dự của hơn 500 thiền sinh.

   Vào lúc 9g30, tại Pháp đường Thấy và Biết, Thầy Viện chủ đã mang đến hội chúng tham dự khóa tu bài Pháp thoại với chủ đề “Có Những Loại Ánh Sáng”.

   Mở đầu Pháp thoại, Thầy chia sẻ: cho dù nơi đây là ban ngày, phía trời Âu là đêm tối thì tất cả nhân loại chỉ sống với một ánh mặt trời duy nhất. Tất cả các loài hữu tình và vô tình đều sống trong ánh sáng mặt trời duy nhất – ánh sáng đầu tiên mà con người bắt gặp. Hễ có mặt trời thì vươn mình, mặt trời xuống núi thì vạn loại cùng ngủ yên. Những cây hoa, những tán cây khi ở trong bóng mát cũng tự vươn mình để tìm ánh mặt trời. Cố nhiên, cũng có những loài cây sống trong mát, nhưng tuyệt đại đa số là phải có ánh nắng; mát không có nghĩa là không có ánh nắng, nhưng mát vẫn phải có sáng. Thầy nói, đại chúng đang ngồi tại Pháp đường là đang đón nhận ánh sáng, còn khi bước ra ngoài sân thì đón nhận ánh nắng. Ánh sáng mặt trời nuôi dưỡng chúng ta trong từng khoảnh khắc, từng phút giây và từng tế bào của ta đều được thắp sáng.


   Một loại ánh sáng thứ hai mà chúng ta tiếp xúc, đó chính là ánh sáng của mặt trăng. Nếu ánh sáng mặt trời là ánh sáng tự nhiên, phản chiếu đến toàn thế giới thì chịu sự tương tác của ánh sáng mặt trời mà từ đó ánh sáng mặt trăng được phản chiếu. Do vậy mà chúng ta thấy ánh sáng của trăng mát mẻ, dịu dàng, không gay gắt, không sáng chói, mà trong đêm thanh vắt, chúng ta thường cảm thụ về ánh trăng. Khác với mặt trời, mắt chúng ta vẫn thấy, tâm hồn vẫn cảm nhận, nhưng cái thấy của mặt trăng cho chúng ta cảm xúc nhiều hơn. Người của ngày hôm nay, không thấy được ánh trăng năm xưa, nhưng ánh trăng ngày hôm nay được soi chiếu từ ngàn xưa. Nhìn thấy ánh trăng qua cuộc đời thăng trầm với những cái buồn vui sướng khổ của chúng ta. Nếu là người học Phật, chúng ta vẫn có quyền buồn vui sướng khổ với ánh trăng, nhưng để cho tâm hồn được tĩnh lặng, ta vẫn có thể thấy được ánh trăng. “Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt/ Vạn lý vô vân vạn lý thiên”: Nếu có một nghìn dòng sông thì sẽ có một nghìn ánh trăng xoay xuống. Nếu một ngàn dặm không có mây thì ánh trăng sẽ sáng cả một bầu trời. Điều đó có nghĩa là chân lý luôn luôn hiện diện và mặt trời trí tuệ vẫn luôn luôn có mặt ở trong ta. “Phật là vầng trăng mát”. Mỗi người chúng ta có một vầng trăng mát mẻ dịu dàng bình an trong tâm thức, chỉ là mây vô minh che lấp nên không thấy được ánh trăng mát mẻ đó. Gió cuốn, mây tan, vầng trăng sẽ xuất hiện. Khi nào mà tâm tĩnh lặng, gạt qua những buồn vui thì tự nhiên thấy tâm hồn yên ắng, nhẹ nhàng, thanh cao.

   Thầy đề cập đến câu thành ngữ “có trăng quên đèn”, qua đó nhắc đến loại ánh sáng thứ ba đó chính là đèn. Từ thuở xa xưa chưa có gì, tiên tổ ông bà đã biết lấy hai cục đá chạm vào nhau để ra lửa, biết lấy cái thanh gỗ mài cho thật nóng để rồi khói lửa bốc lên. Từ đó mà có chiên, xào, nấu nướng và có rọi trong buổi tối. Qua đó thấy được, từ thời cổ đại người ta thấy được sự màu nhiệm của ánh lửa, ánh đèn và hình dung rằng đây là một vị thần – Thần Lửa để thờ. Ngọn lửa nuôi dưỡng sự sống, ngọn lửa thắp đuốc cho ta đi, ngọn lửa nuôi dưỡng tâm hồn và cũng từ đó mà văn thơ xuất hiện. “Cảo thơm lần giở trước đèn”, ngày xưa người ta sống trong ánh đèn nhiều hơn là ánh điện. Ánh nến chứng tri cho cái nghĩa tình và sự đùm bọc của gia đình thiêng liêng màu nhiệm qua mỗi bữa cơm sum họp. Ánh trăng đã soi sáng cuộc đời, ánh trăng đã soi sáng tình người. Ngọn đèn cũng đã thắp sáng tình người và tình gia đình huyết thống. Ánh đèn từ thuở bình minh của sự sống đã giúp chúng ta từ cái ăn đến cái học, từng cái sinh hoạt, và ngọn đèn trở thành biểu tượng của tâm linh. Khi người thầy truyền trao cho đệ tử được gọi là truyền đăng, truyền ngọn đèn tâm thức cho người sau. “Phú pháp truyền đăng” – là giao phó chánh pháp nhãn tạng, truyền cái ánh sáng tuệ giác của Đức Thế Tôn cho người sau. Thầy nói, sống mà không có ánh sáng, không có ngọn đèn thì không biết là con người sẽ đi về đâu. Khi mà bố mẹ giao một tài sản cho con, chưa nói lên gì cả. Có truyền đăng hay không, có giao ánh sáng, giao tuệ giác hay không còn là một chuyện khác nữa. Giao tài sản cho con mà con mình chưa cài đặt một tâm thức để quản lý tài sản thì trở thành một mối họa. Cho nên ánh sáng là một biểu tượng rất đẹp, mà ngọn đèn là cái linh thiêng, ngày xưa cũng như nay.


   Những ánh sáng chúng ta vừa cảm nhận, đó là ánh sáng của vật lý, ánh sáng của tự nhiên, cũng có thể là ánh sáng nhân tạo, nhưng những ánh sáng này là điều chúng ta học. Thứ nhất, ánh sáng của tri thức. Chúng ta phải học, phải có kiến thức, từ kiến thức cho chúng ta nhận thức về cái đúng sai ở trên đời mà ứng xử cho thích hợp. Thiếu kiến thức, sống chủ quan với cái của mình, tự cho mình là phải, nhưng cái đúng phải của mình ảnh hưởng đến người khác, ảnh hưởng đến tâm tư, quan hệ, đến cảm xúc của người khác, ảnh hưởng đến tất cả những tình cảm, trí tuệ,... những cái của người khác. Nó đánh mất mình và đánh mất những cái xung quanh. Thế nên ánh sáng của kiến thức rất quan trọng, những cái cơ bản mà chúng ta phải biết, kiến thức tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống.

   “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Con người ta uy tín do cái miệng, mà chết cũng do cái miệng, khỏe cũng do cái miệng, bệnh cũng do cái miệng. “Họa tùng khẩu xuất” mà “bệnh tùng khẩu nhập”. Thầy nhấn mạnh, chỉ có kiến thức mới dẫn lối đưa đường, giúp cho chúng ta trở thành một người có nhân phẩm, nhân cách, đạo đức, văn hóa, lối sống. Cho dù bạn là ai, bạn đứng ở trên đỉnh vinh quang nào, có sở hữu một cái tài sản tầm cỡ cỡ nào, nó chưa nói lên gì cả. Những cái đó cần được điểm tô bằng các giá trị của kiến thức về văn hóa và đạo đức, mà muốn vậy thì chúng ta phải học. Những người càng học thì lại càng khiêm cung, bể học thì bao la, càng học thì càng thấy mình bé nhỏ. Người không học thấy thế giới này chỉ có mình, cho nên nhất định phải học. Kiến thức phổ quát là để ứng xử, để giao tế, xây dựng phẩm chất của mình và kiến thức chuyên môn đó là nghề nghiệp, mình phải biết. Mỗi người có một lĩnh vực khác nhau và chỉ có người đó mới am tường nắm rõ. Đừng thấy cái lộ trình làm việc của người khác không theo cái của mình mà phê bình, chỉ trích. Mỗi người có một khả năng chuyên môn và chúng ta phải tôn trọng kiến thức của người đó. Xã hội luôn luôn phát triển và kiến thức của con người luôn luôn đổi mới. Thầy nhắn nhủ đến các bậc làm cha mẹ, tuổi trẻ hiện nay kiến thức cao rộng, tầm hiểu biết nhanh nhạy, học nhanh, cập nhật nhiều. Tuy vẫn có mặt trái, nhưng vươn tầm hiểu biết hôm nay phải nói là tuổi trẻ; thế hệ dường như chúng ta đã bắt đầu đi qua một chặng đường mà gọi là lỗi thời, nếu muốn bắt kịp thời đại thì phải cập nhật kiến thức và hiểu biết. Đừng để sự hiểu biết lệch lạc, thiếu chuẩn mực, không có điểm gặp nhau mà để muộn phiền xảy ra. Nhưng cho dù kiến thức của cuộc đời này có rộng rãi, bao la đến đâu thì vẫn có tham sân si. Đôi khi chính nó là nhân tố để làm cho ta tham sân si, tức tối, phiền, muộn, giận hờn.

   Thầy chỉ dạy, người học Phật đi tìm cái tuệ giác của Đức Thế Tôn, học kiến thức Phật học, biến kiến thức thành cái của mình để soi sáng tâm hồn của mình, nhận thức được bản chất và giá trị của cuộc đời, thấy rõ được sự thật của nó là gì. Có nhiều loại ánh sáng, nhưng đây là ánh sáng chúng ta cần học. Ánh sáng của Đạo Pháp. Chúng ta phải học Phật thật giỏi, có thẩm quyền nói về đạo pháp, ứng dụng lời dạy của Đức Phật, đủ để chiêm nghiệm rằng lời dạy đó như thế nào. Đừng không học Phật mà cứ nói chuyện đạo Pháp, không học Phật mà nói chuyện chùa chiền, tu hành. Pháp của Phật, Pháp học, Pháp hành rồi Pháp thành. Phải học Phật để tìm hiểu lời dạy của Đức Phật, ứng dụng lời dạy để đem lại lợi ích cho mình, cho gia đình, xã hội và thế gian này. Chỉ có học Phật, chúng ta mới giải quyết được tham sân si, thấy rõ được ta là ai, có mặt trên đời để làm gì và ta sống như thế nào để cho có giá trị.

   Tất cả sự sự vật vật trên thế gian đều diệt sinh sinh diệt. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy, dù sống 100 năm mà không thấy được pháp sinh diệt, không bằng người sống 01 ngày mà thấy được pháp sinh diệt. Pháp sinh diệt là Pháp luôn luôn biến đổi không ngừng, Khổng Tử gọi là dịch biến. Tâm thức này cũng thế luôn luôn sinh diệt. Pháp sinh diệt là cái thấy đầu tiên và cái thấy này chỉ có học Phật và phải chiêm nghiệm. Giống như một cái cơn sóng bắt đầu thành, lên trên đỉnh là trụ, rớt xuống là hoại và nó tiêu tán là không. Cũng vậy, không chờ hoa héo mình mới thấy sinh diệt, mà nó đang sinh diệt trong từng khoảnh khắc.


   Và cái thấy thứ hai, tiếp tục thực tập và ứng dụng lời dạy của Đức Thế Tôn, chúng ta sẽ chiêm nghiệm cuộc đời này đích thực nó là gì. Tu tập là để thấy cho được lẽ thật, thấy cho được pháp sinh diệt mà có được an lạc. Bởi lẽ, khuynh hướng của chúng ta là trốn khổ tìm vui, chối bỏ khổ đau để tìm hạnh phúc. Đức Phật nói bản chất của cuộc đời này là khổ, chúng ta sống trên cuộc đời này là sống trong cái khổ, đó là sự thật, cần thấy để giải hóa, thay đổi và sống với nó. Tu để thấy được pháp sanh diệt, tu để thấy được lẽ thật của cuộc đời. Thấy được tất cả các pháp đều do duyên sinh không thật có. Chúng ta sống thiếu tuệ giác tu tập, thiếu thực tập giáo pháp sẽ rơi vào sự ngộ nhận, hiểu biết sai lầm không phù hợp với chân lý. Chúng ta là người học Phật, tin nhân quả luân hồi, nghiệp báo, không có một cái gì để gọi là an bài hay là tạo dựng mà các pháp đều do duyên sinh. Đạt được cái trí tuệ tối thượng mà người học Phật thực tập, đó chính là trí tuệ Bát Nhã, thấy được thực tướng của năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức là không có, nhờ vậy mà thoát được tất cả các khổ nạn. Hầu như chúng ta đều sống trong thế giới hiện tượng thống với cái biết của mình, vì bám chắc vào cái biết nên mờ nhạt đi cái thấy. Chính cái biết làm cho ta trồi sụt cảm xúc tham sân sướng khổ buồn vui.

   Cuối lời, Thầy nhắn nhủ đại chúng: Học Phật rồi hãy luôn luôn chánh niệm, ghi nhận những gì đang thấy, biết, sống với sự thật sinh diệt luôn luôn hiện hữu, sống với chân lý Tứ đế và sống với pháp duyên sinh. Đó chính là sống bằng tuệ giác của người học Phật, sống bằng ngọn nến chính chúng ta. Có thể chúng ta mù ánh mắt nhưng tâm ta sáng ngời, không bị chi phối bởi cuộc đời, đó là thấy như thật, thấy như chơn, thấy rõ được bản chất của cuộc đời, đó là ánh sáng chúng ta cần học, cần khai khác nằm trong mỗi chúng ta chứ không phải tìm kiếm đâu xa xôi, là ánh sáng tối hậu mà chúng ta cần thực tập cho đạt được.

   Vào lúc 11 giờ, thời Pháp âm khép lại đầy phúc lạc, qua lời giảng yêm thức từ Thầy, đại chúng có cho mình cái hiểu sâu sắc hơn về những loại ánh sáng, từ đó vận dụng bài học từ đạo một cách lợi lạc hơn vào đời sống.

Khánh Ngân

Tin Tức Liên Quan